Skip to main content

Một số kết quả tích cực về chuyển đổi số ở An Giang

(Cổng TTĐT tỉnh AG)- Đảng và Nhà nước đã và đang đặc biệt quan tâm đến chuyển đổi số trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Ngày 27-9-2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

 

Một trong những quan điểm chỉ đạo quan trọng của Đảng được thể hiện trong Nghị quyết là: “Chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng; đồng thời nhận thức đầy đủ, đúng đắn về nội hàm, bản chất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để quyết tâm đổi mới tư duy và hành động, coi đó là giải pháp đột phá với bước đi và lộ trình phù hợp là cơ hội để Việt Nam bứt phá trong phát triển kinh tế - xã hội.

Một số kết quả bước đầu

Thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Tỉnh đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ tỉnh, nhiệm kỳ 2020-2025, định hướng đến năm 2030. Qua đó, đạt một số kết quả tích cực: cơ sở hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin được đầu tư khá đồng bộ; bước đầu hình thành các cơ sở dữ liệu nền và chuyên ngành, phục vụ triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin và dịch vụ Chính quyền điện tử; mạng truyền số liệu chuyên dùng của cơ quan Đảng, Nhà nước được triển khai liên thông 3 cấp từ tỉnh đến huyện, xã và kết nối Trung ương; hệ thống hội nghị trực tuyến kết nối 3 cấp từ Trung ương đến cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã được sử dụng và phát huy hiệu quả. Từng bước thực hiện chuyển đổi số trong hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị, xây dựng chính quyền điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin thực hiện cải cách thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công cho dân và doanh nghiệp.

Công tác cải cách thủ tục hành chính (TTHC) của tỉnh ngày càng được nâng cao chất lượng dịch vụ, lấy người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm phục vụ. Chất lượng dịch vụ công, kể cả trực tiếp và trực tuyến từng bước đi vào nề nếp và thông suốt, đảm bảo tính công khai, minh bạch, hiệu quả, đúng thời gian. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp giải quyết TTHC, thu hút sản xuất, kinh doanh, đầu tư góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngày càng được chuẩn hóa. Tổ chức bộ máy tiếp tục được kiện toàn, sắp xếp theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Công tác tuyên truyền được thực hiện với nhiều hình thức đa dạng, nội dung phong phú đã tuyên truyền các thông tin hoạt động CCHC của tỉnh, các quy định, chính sách, pháp luật mới ban hành đã góp phân nâng cao hiểu biết của nhân dân và cán bộ, công chức, viên chức. Qua đó, việc chấp hành pháp luật ngày càng được nâng lên. Công tác kiểm tra CCHC được các cơ quan, đơn vị quan tâm. Qua đó, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, khắc phục những hạn chế, thiếu sót, cũng như phát huy những giải pháp, sáng kiến, mô hình hay trong hoạt động quản lý nhà nước. Từ đó, nâng cao chất lượng phục vụ người dân, tổ chức, doanh nghiệp và nâng cao mức độ hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.

 

Kết quả PCI An Giang 2021 đạt hạng 17/63 tỉnh, thành phố, tăng 2 bậc so năm 2020. Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công (PAPI), tỉnh thuộc nhóm “trung bình thấp”, xếp hạng 32, giảm 18 bậc so năm 2020; Chỉ số CCHC (Par Index) xếp hạng 47/63 tỉnh, thành phố, giảm 21 hạng so năm 2020. Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính (Chỉ số SIPAS) năm 2021 của tỉnh đạt 86,14%, xếp hạng 43/63 tỉnh, thành phố, tăng 2 bậc so năm 2020.

Nhiều mô hình CCHC hiệu quả như Trung tâm Phục vụ hành chính công TP. Châu Đốc, năm 2021 đã tiếp nhận, giải quyết TTHC gần 8.400 hồ sơ, với 99% hồ sơ xử lý đúng và trước hạn. Hồ sơ trực tuyến mức độ 3, 4 đạt từ 75%; tiếp nhận và trả kết quả TTHC qua dịch vụ bưu chính công ích trên 6.800 hồ sơ các loại. Chất lượng, hiệu quả hoạt động của trung tâm được nâng cao, tạo sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp. Trung tâm Phục vụ hành chính công huyện Châu Phú đã tiếp nhận trên 17.000 hồ sơ đăng ký, giải quyết TTHC, tỷ lệ giải quyết hồ sơ đúng hạn rất cao trên 99% và được người dân đồng tình, đánh giá cao (12).

Còn nhiều khó khăn, thách thức

Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển, việc thực hiện chuyển đổi số vẫn còn một số hạn chế, khó khăn: Năm 2021, chỉ số Chuyển đổi số (DTI) của An Giang năm 2021 đạt khá thấp, đứng thứ 42/63 tỉnh, thành phố (trong đó, xếp hạng 41/63 về chính quyền số; xếp hạng 55/63 về kinh tế số; xếp hạng 50/63 về xã hội số). Việc xây dựng chính quyền điện tử chưa có đột phá, người dân tham gia sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,4 theo Nghị định 43/2011/NĐ-CP của Chính phủ. Theo Nghị định số 42/2022/NĐ-CP (thay thế Nghị định 43/2011/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 15/8/2022): cơ quan Nhà nước cung cấp dịch vụ công trực trực tuyến theo 02 mức độ toàn trình và một phần; và các nền tảng số còn hạn chế, đạt tỷ lệ chưa cao. Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ chỉ đạo điều hành và chuyển đổi số trong các tổ chức chính trị - xã hội còn thấp. Doanh nghiệp công nghệ số hoạt động trên địa bàn còn ít, quy mô nhỏ; chưa có nhiều doanh nghiệp tham gia vào sàn thương mại điện tử, chưa tận dụng được thế mạnh của công nghệ số vào hoạt động phát triển sản xuất thương mại. Hạ tầng kỹ thuật trong các cơ quan đảng, đoàn thể chính trị - xã hội vẫn chưa đồng bộ, chưa kết nối với khối chính quyền và cần tiếp tục đầu tư phát triển nhanh hơn. Nguồn lực tài chính cho đầu tư vào công nghệ thông tin chưa tương xứng với yêu cầu phát triển; việc ứng dụng công nghệ thông tin và nhân lực về chuyển đổi số còn hạn chế.

Nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn trên là do nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người dân về chuyển đổi số chưa đầy đủ, chưa đúng với bản chất thực sự của công cuộc chuyển đổi số quốc gia hiện nay; việc huy động nguồn lực xã hội đầu tư cho chuyển đổi số chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; trình độ dân trí chưa đồng đều, điều kiện và khả năng tiếp cận công nghệ thông tin, công nghệ số, nền tảng số còn nhiều hạn chế, chưa thấy được lợi ích việc chuyển đổi số mang lại.  

Một số giải pháp trọng tâm  

Nhằm triển khai hiệu quả chuyển đổi số trên các phương diện chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số theo tinh thần Nghị quyết số 52-NQ/TW; Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ tỉnh, nhiệm kỳ 2020-2025, các ngành, các cấp cần tiến hành đồng bộ một số giải pháp trọng tâm sau:

Một là, đổi mới tư duy và nhận thức về chuyển đổi số của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức và mọi người dân. Giải pháp “chuyển đổi số trước hết là chuyển đổi về nhận thức” được thể hiện rõ trong quan điểm chỉ đạo tại Đại hội XIII của Đảng: “phải đổi mới tư duy phát triển, thay đổi cách làm việc, cách sống, đẩy mạnh cải cách thể chế, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; thực hiện quyết liệt chuyển đổi số, xây dựng nền kinh tế số, xã hội số”. Quyết định 749/QĐ-TTg ngày 3-6-2020 của Thủ tướng Chính phủ về “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, đã chỉ rõ 6 quan điểm, trong đó quan điểm thứ nhất là: “Nhận thức đóng vai trò quyết định trong chuyển đổi số”, nhấn mạnh “Chuyển đổi số trước tiên là chuyển đổi nhận thức”. Như vậy, để tham gia vào tiến trình chuyển đổi số, mỗi cán bộ, người dân và doanh nghiệp cần nhận thức rõ về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của chuyển đổi số. Chìa khóa để đẩy nhanh sự chuyển đổi nhận thức nằm ở trong tư duy, trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu và mọi người dân.

Hai là, xây dựng cơ chế, chính sách phát triển hạ tầng số; phát triển nguồn nhân lực; bảo đảm an toàn, an ninh mạng như: Cơ chế, chính sách phát triển hạ tầng số; phát triển, sử dụng nền tảng số; phát triển nguồn nhân lực; bảo đảm an toàn, an ninh mạng, phòng ngừa vi phạm, tội phạm trong quá trình chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh.

Ba là, tập trung xây dựng chính quyền số, phát triển kinh tế số, phát triển xã hội số: Xây dựng chính quyền số; phát triển kinh tế số; phát triển xã hội số

Bốn là, tập trung chuyển đổi số một số ngành, lĩnh vực trọng yếu

Lĩnh vực du lịch: Ưu tiên triển khai du lịch thông minh trên địa bàn tỉnh; thực hiện mỗi người dân là một hướng dẫn viên du lịch; xây dựng hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu giới thiệu các khu điểm du lịch, các điểm tham quan, di tích lịch sử, ứng dụng công nghệ số trong du lịch.

Lĩnh vực nông nghiệp: xây dựng cơ sở dữ liệu về nông nghiệp trên nền tảng dữ liệu lớn có sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân, cộng đồng.

Xây dựng bản đồ số nông nghiệp, kết nối, chia sẻ và cung cấp dữ liệu mở để thực hiện dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân và doanh nghiệp. Thúc đẩy, khuyến khích nông dân tham gia các hoạt động ứng dụng công nghệ số vào quy trình sản xuất, cung cấp dịch vụ nông nghiệp. Áp dụng chương trình, phần mềm, thiết bị internet vạn vật nhằm tối ưu hóa việc sử việc sử dụng tài nguyên (nước, đất đai), kiểm soát dịch bệnh, tăng năng suất lao động, giảm phụ thuộc vào điều kiện thời tiết.

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn trong các chương trình khoa học và công nghệ, quản lý chất lượng nước, quy trình chăm sóc cây trồng, vật nuôi; áp dụng công nghệ tự động hóa trong chế biến để giảm chi phí, bảo đảm chất lượng sản phẩm; ứng dụng công nghệ chuỗi khối, hệ thống thông tin địa lý (GIS) để truy xuất nguồn gốc, chỉ dẫn địa lý.

Chủ động tham gia các sàn giao dịch thương mại điện tử kết nối cung cầu sản phẩm nông nghiệp. Thu hút, phát triển các sản phẩm ứng dụng trong nông nghiệp. Tạo dựng môi trường, hệ sinh thái số nông nghiệp, thúc đẩy chuyển đổi từ “sản xuất nông nghiệp” sang “Kinh tế nông nghiệp”, phát triển nên nông nghiệp công nghệ cao theo hướng chú trọng nông nghiệp thông minh, nông nghiệp chính xác, tăng tỷ trọng của nông nghiệp công nghệ số trong nền kinh tế.

Lĩnh vực y tế: nâng cao chất lượng khám và điều trị, ngăn ngừa dịch bệnh, từng bước tạo ra sự bình đẳng trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế giữa khu vực nông thôn và thành thị.

Xây dựng hệ thống thông tin điều hành y tế thông minh, mô hình bệnh viện thông minh, bệnh án điện tử cho các bệnh viện, trung tâm y tế, quản lý chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Nâng cấp hệ thống lưu trữ và chẩn đoàn hình ảnh. Đào tạo, huấn luyện về y tế thông minh, an ninh mạng và xây dựng hệ thống hỗ trợ ra quyết định y học lâm sàng. Hoàn thiện hệ thống kết nối trực tuyến với các bệnh viện lớn của vùng, cả nước để nâng cao năng lực điều trị, chất lượng khám, chữa bệnh.

Lĩnh vực giáo dục và đào tạo: tận dụng tiến bộ công nghệ để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo trong dạy và học, nâng cao chất lượng và cơ hội tiếp cận giáo dục, hiệu quả quản lý giáo dục; phát triển toàn diện xây dựng trường học số trong ngành giáo dục; tập trung thực hiện: tăng cường các điều kiện đảm bảo triển khai ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo; phát triển hệ sinh thái chuyển đổi số hoạt động dạy, học, kiểm tra, đánh giá và nghiên cứu khoa học; triển khai đồng bộ hệ thống thông tin quản lý giáo dục và đào tạo và cơ sở dữ liệu ngành giáo dục; tuyên truyền, phố biến nâng cao nhận thức; đào tạo, bồi dưỡng năng lực số cho đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, nhân viên và người học; nâng cao chỉ số phát triển nguồn nhân lực về Chính phủ điện tử (HCI); huy động các nguồn lực tham gia ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo; hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy chuyển đổi số và tăng cường giám sát, đánh giá việc thực hiện cơ chế, chính sách.

Trong đó, chú trọng hoàn chỉnh hệ thống cơ sở dữ liệu dùng chung của ngành giáo dục và đào tạo; bồi dưỡng, tập huấn, đào tạo nâng cao trình độ công nghệ thông tn, kiến thức số, kỹ năng số cho công chức, viên chức toàn Ngành. Triển khai đào tạo, áp dụng mô hình khoa học – công nghệ- kỹ thuật – toán học (STEM), Khoa học – công nghệ - kỹ thuật – nghệ thuật – toán học (STEM). Số hóa tài liệu, giáo trình, xây dựng hệ thống đào tạo trực tuyến, tạo điều kiện cho mọi người dân có thể tham gia học tập suốt đời. Nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập để tạo ra nguồn lao động có đủ tri thức, kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế.

Lĩnh vực quản lý quy hoạch và phát triển đô thị: nhằm hoàn thiện hệ thống các bản đồ, cơ sở dữ liệu đồng bộ, đầy đủ, chi tiết, chính xác cao đáp ứng các yêu cầu về dữ liệu và phục vụ quản lý quy hoạch, phát triển đô thị, hạ tầng kỹ thuật đô thị thành phố Long Xuyên đến năm 2025 và phạm vi toàn tỉnh đến năm 2030, để sử dụng một hệ thống cơ sở dữ liệu, hệ thống bản đồ chung; thiết lập một hệ thống phần mềm quản lý hạ tầng kỹ thuật đô thị tập trung, thống nhất. Đáp ứng nhu cầu về ứng dụng công nghệ thông tin, ứng dụng công nghệ bản đồ số cho các đơn vị tham gia vào quản lý quy hoạch, phát triển đô thị, hạ tầng kỹ thuật đô thị .

Tóm lại, chuyển đổi số đã, đang và sẽ là cuộc cách mạng của toàn dân. Cuộc cách mạng này chỉ thực sự thành công khi cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp, mỗi người dân tích cực tham gia và thụ hưởng các lợi ích mà chuyển đổi số mang lại và cần tận dụng tối đa mọi cơ hội để chuyển đổi số nhằm tạo động lực cho đất nước phát triển nhanh, bền vững trong những thập niên tới./.

Trường Giang